1 tháng 11, 2012

CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN - Năm B



Đnl 6,2-6 ; Tv 17 ; Dt 7,23-28 ; Mc 12,28b-34.

Bài đọc 1                                
Đnl 6,2-6

2 Ngày ấy, ông Mô-sê nói với dân Ít-ra-en rằng : “Anh (em) cũng như con cháu anh (em) sẽ kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mọi ngày trong suốt cuộc đời, tuân giữ tất cả những chỉ thị và mệnh lệnh của Người mà tôi truyền cho anh (em), và anh (em) sẽ được sống lâu. 3 Hỡi Ít-ra-en, hãy nghe và lo đem những điều ấy ra thực hành ; như vậy anh (em) sẽ được hạnh phúc và trở nên thật đông đảo, trong miền đất tràn trề sữa và mật, như Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh (em), đã phán với anh (em).
4 Nghe đây, hỡi Ít-ra-en ! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. 5 Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em). 6 Những lời này tôi truyền cho anh (em) hôm nay, anh (em) phải ghi tạc vào lòng.



Đáp ca                                     Tv 17,2-3a.3bc-4.47 và 51ab (Đ. c. 2)

Đáp :    Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con.

2          Con yêu mến Ngài,
 lạy Chúa là sức mạnh của con ;
3a        lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ,
là Đấng giải thoát con ;                                    Đ.

3bc      lạy Thiên Chúa con thờ,
là núi đá cho con trú ẩn,
            là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng,
là thành trì bảo vệ.
4          Tôi kêu cầu Chúa
là Đấng xứng muôn lời ngợi khen,
            và tôi được cứu thoát khỏi quân thù.               Đ.

47        Đức Chúa vạn vạn tuế !
            Chúc tụng Người là núi đá cho tôi trú ẩn.
            Tôn vinh Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi,
51ab    Chúa ban nhiều chiến thắng lớn lao
            cho Đức Vua chính Người đã lập.                    Đ.



Bài đọc 2                                 Dt 7,23-28

23 Thưa anh em, trong Cựu Ước, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế, bởi vì họ phải chết, không thể giữ mãi chức vụ đó. 24 Còn Đức Giê-su, chính vì Người hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi mãi. 25 Do đó, Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Người hằng sống để chuyển cầu cho họ.
26 Phải, đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến : một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời. 27 Đức Giê-su không như các vị thượng tế khác : mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân ; phần Người, Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. 28 Vì Luật Mô-sê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời.



Tung hô Tin Mừng                 Ga 14,23

Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói : Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến với người ấy. Ha-lê-lui-a.



Tin Mừng                                Mc 12,28b-34

28 Khi ấy, có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giê-su và những người thuộc nhóm Xa-đốc tranh luận với nhau. Thấy Đức Giê-su đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi : "Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu ?" 29 Đức Giê-su trả lời : "Điều răn đứng đầu là : Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. 30 Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. 31 Điều răn thứ hai là : <MI>Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó." 32 Ông kinh sư nói với Đức Giê-su : "Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. 33 Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ." 34 Đức Giê-su thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo : "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu !" Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa.

Chi tiết :
  •  (c.29) Kinh nguyện hằng ngày của người Do Thái bắt đầu bằng câu "Hãy lắng nghe hỡi Israel." Đó là lời nhắc nhở giao ước mà Thiên Chúa đã hứa với dân người trên núi Sinai khi Ngài giao truyền các điều răn.
  • (c.30) Để trả lời câu hỏi của vị kinh sư, Đức Giêsu không xếp dặt lại thứ tự quan trọng của 613 điều răn ghi trong đạo Do Thái. Thay vào đó, Đức Giêusu đi vào trọng tâm của vấn đề, điều răn căn bản mà tất cả các điều răn khác đều dựa vào.
  • (c.31) Điều răn thứ hai "Yêu người như yêu chính mình" là tóm lược chương 19 trong sách Lêvi khi Thiên Chúa răn dạy người Do Thái cách đối xử trong cuộc sống hằng ngày. 
  • (c.34) Sự nhận biết của người kinh sư "yêu người thân cận... là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ" đã đưa người ấy gần Nước Trời mà Đức Giêsu đã tuyên bố qua lời nói và hành động của Người.
Ý chính : 
          
          Các câu hỏi của người kinh sư trong bài Tin Mừng là một vấn đề nan giải của người Do Thái bấy giờ. Họ phân luật thành 613 điều khác nhau, trong đó : 248 điều phải thi hành và 365 điều cấm. Vì giới luật quá nhiều nên họ không thể xác định được đâu là điều chính yếu và quan trọng nhất. Đức Giêsu đã cho họ câu trả lời thật xác đáng. Người cho họ biết tất cả các giới luật đều quy về giới răn duy nhất : mến Chúa - yêu người, hai điều này không thể tách rời nhau.

Gợi ý suy niệm : 
  1. Trong thực tế, tuân giữ hai điều răn này nghĩa là gì ? 
  2. Người ta có thể yêu mến Thiên Chúa cách trọn vẹn được không ? 
  3. Thế nào là yêu thương người thân cận như chính mình ?
  4. Điều nào sau đây quan trọng hơn đối với bạn : tuân giữ những nghi lễ tôn giáo hay tuân giữ điều răn yêu thương ?
  5. Đoạn Tin Mừng này dạy chúng ta phải chọn ưu tiên nào ?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét